Thứ Tư, 11 tháng 1, 2012

Bill Gates, huyền thoại một thế kỷ (phần 3)

Năm 1983, Microsoft bắt đầu mở các văn phòng đại diện trên toàn cầu. Khoảng 30% số lượng máy tính trên thế giới chạy bằng phần mềm của Microsoft.

Thành công ban đầu của Microsoft
Bill Gates trở thành nhà quản lý thành công bằng sự nhạy bén cả trong cả kỹ thuật lẫn kinh doanh và là người phát ngôn chính của công ty. Anh xem xét từng dòng code mà công ty chuyển đến và thường xuyên viết lại code khi thấy cần thiết.
Khi ngành công nghệ máy tính phát triển và xuất hiện những công ty như Apple, Intel, và IBM sản xuất phần cứng cùng các thiết bị cấu thành, Gates liên tục đi giới thiệu về các sản phẩm đáng giá của những ứng dụng phần mềm Microsoft. Anh thường đưa mẹ mình đi cùng. Bà Mary đánh giá cao và kết nối thành công với các thành viên ở nhiều hội đồng công ty, trong đó có IBM. Thông qua bà, Bill Gates đã gặp CEO của IBM.

Bill Gates còn rất trẻ nhưng đã nhanh chóng tạo ấn tượng mạnh với IBM.
Tháng 10/1980, IBM đang tìm kiếm phần mềm có thể điều hành máy tính cá nhân (PC) sắp ra mắt của họ và công ty đã tiếp cận với Microsoft. Có một chuyện hết sức đáng nhớ là lần đầu tiên gặp Bill Gates, có người ở IBM tưởng anh là nhân viên phụ tá văn phòng nên đã yêu cầu anh phục vụ cà phê. Khi đó Gates trông còn rất trẻ nhưng anh đã nhanh chóng tạo ấn tượng mạnh với IBM và điều đó thuyết phục IBM rằng anh và công ty của anh có thể đáp ứng được nhu cầu của họ.
Vấn đề khó khăn duy nhất là Microsoft chưa phát triển được hệ điều hành cơ bản để chạy các máy tính của IBM. Tuy nhiên, Gates không hề dừng lại, anh đã mua một hệ điều hành được phát triển để chạy trên những chiếc máy tính tương tự như máy của IBM. Anh thương lượng với người phát triển phần mềm để Microsoft trở thành đại lý cấp phép độc quyền và sau đó là chủ sở hữu hoàn toàn đối với 86-DOS, một hệ điều hành tương tự như CP/M do Tim Peterson của hãng Seattle Computer Products (SCP) viết cho các phần cứng có tính năng tương tự như PC.

Bill Gates phải điều chỉnh phần mềm mới được mua để làm việc cho PC của IBM. Anh đưa ra giá 50 nghìn đô-la, bằng với giá mua phần mềm ban đầu. IBM muốn mua mã nguồn để có thể cung cấp thông tin cho hệ điều hành nhưng Gates từ chối, thay vào đó anh đề xuất IBM trả phí cấp phép cho các bản copy phần mềm được bán cùng với máy tính của họ. Thực hiện việc này cho phép Microsoft cấp phép phần mềm mà họ gọi là MS-DOS cho bất kỳ công ty sản xuất máy tính PC nào. Điều mà sớm muộn các công ty khác có thể làm là họ sẽ nhân bản máy tính của IBM. Microsoft cũng cho ra mắt phần mềm có tên gọi là Softcard, cho phép Microsoft BASIC điều hành các sản phẩm Apple II.
Các năm 1978 đến 1981, Microsoft phát triển đội ngũ nhân viên từ 25 người đã lên tới 128 người. Doanh thu cũng tăng từ 4 triệu đô-la lên tới 16 triệu đô-la. Tháng 6/1981, Gates và Allen cơ cấu lại công ty. Bill Gates được bổ nhiệm làm Chủ tịch HĐQT kiêm tổng giám đốc điều hành. Allen làm phó tổng giám đốc điều hành.

Năm 1983, Microsoft bắt đầu mở các văn phòng đại diện trên toàn cầu. Thị trường đầu tiên Gates nhắm tới là Anh và Nhật. Khoảng 30% số lượng máy tính trên thế giới chạy bằng phần mềm của Microsoft. Cũng trong năm này, có một tin làm chấn động Microsoft, Paul Allen được chẩn đoán bị bệnh U lympho Hodgkin. Sau một năm điều trị tích cực, mặc dù bệnh tình của anh đã có phần thuyên giảm nhưng Allen vẫn xin rút khỏi công ty. Lúc này xuất hiện vô số lời đồn đại về việc tại sao Allen rời khỏi Microsoft. Có một số người cho rằng Bill Gates đã đẩy anh ra khỏi công ty, nhưng nhiều người khác lại cho rằng Allen muốn thay đổi và tìm những cơ hội khác.
Phát minh ra hệ điều hành Windows của Microsoft
Mặc dù sự ganh đua giữa Microsoft và Apple rất lớn và liên tục nhưng thời kỳ đầu họ từng chia sẻ nhiều sáng tạo. Năm 1981, Apple mời Microsoft giúp hãng này phát triển phần mềm cho máy tính Macintosh của hãng. Một số nhà sản xuất được tham gia vào cả phát triển phần mềm của Microsoft và phát triển những ứng dụng cho dòng máy tính Macintosh. Việc hợp tác giữa hai công ty được thể hiện trong một số sản phẩm mang thương hiệu chung giữa Microsoft và hệ thống Macintosh. Nhờ quá trình phát triển những ứng dụng này, Microsoft tìm ra hướng phát triển hệ điều hành Windows. Đây là một hệ điều hành sử dụng chuột máy tính để điều khiển giao diện đồ họa, trình bày văn bản và hình ảnh trên màn hình.
Bill Gates nhanh chóng nhận ra rằng loại phần mềm này có thể đại diện cho MS-DOS và toàn thể Microsoft. Đối với người dùng đơn giản, thứ mà người mua nhiều nhất là hình ảnh đồ họa của phần mềm VisiCorp sẽ dễ sử dụng hơn nhiều.
Bill Gates đã thông báo trong một chiến dịch quảng cáo rằng hệ điều hành Microsoft mới chuẩn bị được phát triển và sẽ sử dụng giao diện đồ họa. Nó sẽ có tên gọi là "Windows," và tương thích với tất cả các sản phẩm phần mềm của máy tính cá nhân chạy trên hệ thống MS-DOS. Được coi như một chiến thuật tiếp thị thành công, thật kỳ diệu là gần 30% thị trường máy tính đang sử dụng hệ điều hành MS-DOS đã chờ sự ra đời của hệ điều hành Windows thay vì việc họ chuyển sang dùng một hệ điều hành khác.


Tháng 11/1985, gần hai năm kể từ khi thông báo với người dùng, Bill Gates và Microsoft tung ra sản phẩn Windows. Nhìn bề ngoài, hệ điều hành Windows rất giống với hệ điều hành Macintosh mà công ty Apple (có sự tham gia của đội lập trình Microsoft) đã đưa ra gần hai năm trước đó. Gates đã từng khuyên Apple nên xin bảo hộ bản quyền cho phần mềm Macintosh nhưng họ đã không để tâm tới mà chỉ chú trọng đến việc bán máy tính. Sự thành công vang dội của hệ điều hành Windows đã đẩy Apple vào tình trạng khó khăn. Apple quay sang kiện Microsoft còn Microsoft thì trả đũa bằng cách trì hoãn việc chuyển phần mềm tương thích của Microsoft cho những khách hàng dùng Macintosh. Cuối cùng Microsoft thắng kiện bởi công ty chứng tỏ được rằng mặc dù có những điểm giống nhau trong cách thức hoạt động của hai hệ điều hành nhưng tính năng của chúng lại hoàn toàn khác biệt.
Ngày 13/3/1986, cổ phiếu Microsoft được bán công khai trên thị trường chứng khoán New York lần đầu tiên, mở cửa với mức giá 25,75 đô-la một cổ phần. Dường như ngày hôm đó mọi người chỉ đổ xô vào mua cổ phiếu của Microsoft.
Bill Gates nắm giữ 45%, tương đương với 24,7 triệu cổ phiếu. Giá trị cổ phiếu của Gates ước tính 234 triệu đô-la trong tổng số 520 triệu đô-la của toàn bộ Microsoft. Một năm sau khi cổ phần hóa đại chúng, tháng 3/1987, cổ phiếu Microsoft lên tới 90,75 đô-la, Bill Gates trở thành tỷ phú ở tuổi 31. Chưa có ai trong lịch sử nước Mỹ, từ những nhà đại tư bản và tài chính của thế kỷ 19 cho đến các nhà công nghiệp hiện đại lại kiếm được số tiền khổng lồ như thế ở độ tuổi này.
Kể từ đó Gates liên tiếp đứng đầu hoặc thuộc top đầu trong danh sách 400 người giàu nhất thế giới do tạp chí Forbes bình chọn. Năm 1999, giá cổ phiếu lên cao nhất mọi thời đại, giá trị cổ phần của Gates lên đến đỉnh điểm là 101 tỷ đô-la. Tuy nhiên, Bill Gates không bao giờ cảm thấy hoàn toàn yên tâm về địa vị của công ty. Ông luôn luôn xem xét xem nơi nào có sự cạnh tranh, và nỗ lực phát triển mạnh mẽ cùng với tính cạnh tranh khốc liệt. Gates mong rằng mọi người trong công ty đều có cùng động cơ và cống hiến. Đã từng có lần bà nhân viên phụ tá của công ty, một hôm đi làm sớm đã thấy có người đang ngủ dưới gầm bàn. Trong khi định gọi bảo vệ thì bà nhận ra đó chính là Bill Gates.
Bằng trí tuệ sáng suốt của mình, Gates nhận biết một cách thấu đáo tất cả các mặt của ngành công nghệ phần mềm để phát triển sản phẩm và đưa ra chiến lược của công ty. Khi phân tích bất cứ bước chuyển nào của công ty, ông đều phát triển một hồ sơ về tất cả những trường hợp có thể và giải quyết chúng, đặt ra câu hỏi về bất cứ điều gì có thể xảy ra. Phong cách quản lý đối đầu của ông đã trở thành huyền thoại khi ông thử thách nhân viên và những ý kiến của họ để duy trì quy trình sáng tạo tiếp tục phát triển. Một nhân viên khi trình bày mà không có sự chuẩn bị trước sẽ được nghe Gates nói: “Đó là điều ngớ ngẩn nhất tôi từng nghe!”. Ông liên tục kiểm tra những người xung quanh mình để xem liệu họ có thật sự bị thuyết phục bởi những ý tưởng của họ không.
Bên ngoài công ty, Bill Gates có tiếng là một người cạnh tranh khốc liệt. Nhiều công ty công nghệ hàng đầu như IBM bắt đầu phát triển hệ điều hành riêng của họ với tên gọi OS/2 để thay thế MS-DOS. Thay vì bị áp lực, Gates đẩy mạnh phần mềm Windows lên hàng đầu, cải tiến quá trình hoạt động của nó và mở rộng tính năng sử dụng.


Sản phẩm của Microsoft.

Năm 1989, Microsoft đưa ra sản phẩm Microsoft Office bao gồm các ứng dụng hiệu quả văn phòng như Microsoft Word and Excel được đưa vào trong một hệ thống tương thích với các sản phẩm của Microsoft. Các ứng dụng này không dễ dàng tương thích với hệ điều hành SO/2. Phiên bản Windows mới của Microsoft bán được 100 ngàn bản chỉ trong vòng hai tuần còn OS/2 nhanh chóng bị lu mờ đi. Điều này khiến cho Microsoft có một hệ điều hành thực sự độc quyền cho máy tính cá nhân (PC).

Chẳng bao lâu sau Ủy ban Thương mại Liên bang (FTC) tuyên bố điều tra Microsoft về khả năng vi phạm chống độc quyền. Suốt những năm 1990, Microsoft phải đối mặt với một chuỗi thanh tra của Ủy ban Thương mại Liên bang và Sở Tư pháp. Một số đối thủ cạnh tranh cho rằng Microsoft làm ăn không công bằng. Từ đó những lời đồn thổi của báo chí gây ảnh hưởng lớn đến giá cổ phiếu của Microsoft. Nhiều cổ đông lo lắng rút ra, giá cổ phiếu giảm tới 7 đô-la trong vòng 2 ngày, ngay sau khi FTC tiết lộ thông tin điều tra.

Lúc này Microsoft phải tự bảo vệ mình, điều đó thúc giục Bill Gates trở lại với những “cuộc chiến” đang diễn ra giống như khi ông lên tiếng về nạn ăn cắp phần mềm và tuyên bố rằng những hạn chế đó là mối đe dọa cho sự đổi mới và tính sáng tạo. Cuối cùng thì Microsoft có thể giàn xếp với chính phủ liên bang, tránh được nguy cơ phá sản. Qua đó Gates tìm ra một số cách để làm chệch hướng áp lực bằng những quảng cáo hài hước và sự ra mắt công chúng tại các buổi thương mại máy tính bằng nhận vật Mr. Spock trong bộ phim Star Trek. Mặc dù phải đối mặt với những cuộc điều tra liên bang nhưng Bill Gates vẫn điều hành công ty và cho ra mắt những phiên bản phần mềm mới.


Tài liệu tham khảo:
A&E Television NetworksHard drive: Bill Gates and the making of the Microsoft empire by James Wallace, Jim Erickson.
Theo DVT.vn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét