Thứ Sáu, 20 tháng 1, 2012

Lời chúc năm mới

Vậy là một năm nữa đã trôi qua, nhìn lại dặm chân hành khất, thấy nhiều cái vui nhưng cũng lắm cái không vui.
Tạm gát lại những lo toan phiền toái, HK tôi cũng dắm dúi vài hạt dưa, cây mức,...đón xuân.
Và không quên chúc tất cả mọi người năm mới nhiều sức khỏe, khát khao, yêu đời,..., và yêu người.

Thứ Tư, 11 tháng 1, 2012

Bill Gates, huyền thoại một thế kỷ (phần 4)


Sau khi bà Mary Gates qua đời Bill Gates đã suy sụp vô cùng nhưng cô vợ trẻ đã ở bên an ủi, giúp anh vượt qua những ngày tháng đau buồn.

Chọn lựa của trái tim

Cuộc sống riêng tư

Năm 1989, Bill Gates gặp Melinda French trong một buổi họp báo của Microsoft và cô đã làm rung động trái tim chàng trai 37 tuổi tưởng chừng chỉ biết đến công việc. Khi ấy Melinda đang phụ trách quảng bá phần mềm văn bản tại Microsoft. Sau đó cô trở thành giám đốc phụ trách phần mềm. Năm 1994, Melinda rời Microsoft để dành tâm huyết điều hành quỹ từ thiện.

Ngày 1/1/1994 họ tổ chức lễ cưới tại một hòn đảo thuộc quần đảo Hawaii. Sở dĩ Bill Gates chọn nơi này để tổ chức hôn lễ là bởi anh cho rằng đó là nơi riêng tư và kín đáo, có thể tránh được các phương tiện truyền thông. Hôn lễ được tổ chức trong không khí vui vẻ và ấm cúng cùng 130 khách mời, họ hầu hết là những người bạn thân thiết của cặp vợ chồng trẻ. Không có phóng viên cũng như nhà nhiếp ảnh nào được mời đến dự. Bill Gates mời nam ca sĩ mà anh yêu thích là Willie Nelson đến biểu diễn.

Vài tháng sau khi kết hôn Bill Gates vô cùng buồn bã khi được biết mẹ anh bị ung thư. Gia đình hết sức chữa chạy nhưng đến tháng 6/1994 thì bà qua đời. Được tin mẹ mất, anh vội vàng lên xe, phóng thẳng về nhà với tốc độ quá giới hạn. Trên đường đi anh bị cảnh sát dừng xe lại, sau khi nhận ra Bill Gates đang đầm đìa nước mắt, anh cảnh sát hỏi và được biết nguyên do vì mẹ anh mất. Cảnh sát để Bill Gates đi và nhắc nhở anh lái xe chậm hơn để bảo đảm an toàn. Sau khi bà Mary Gates qua đời, Bill Gates suy sụp vô cùng nhưng cô vợ trẻ đã ở bên an ủi, giúp anh vượt qua những ngày tháng đau buồn.

Bill Gates làm từ thiện.

Năm 1995 Bill Gates cùng vợ đi thăm nhiều nước trên thế giới và họ có một cái nhìn mới về cuộc sống và thế giới. Năm 1996, cô con gái Jennifer chào đời. Một năm sau Gates chuyển gia đình đến ở tại một ngôi nhà với tổng diện tích gần 17 ngàn mét vuông, trị giá 54 triệu đô-la ở bên bờ hồ Washington. Sau đó vợ chồng Gates sinh thêm được cậu con trai Rory John Gates (1999) và cô con gái Phoebe Adele Gates (2002). Gia đình họ rất ấm cúng và hạnh phúc.

Lòng bác ái

Với ảnh hưởng của vợ, Gates tiếp nối những công việc của mẹ mình trước đây và trở thành người dẫn đầu trong hoạt động xã hội. Ông bắt đầu nhận thấy rằng cần phải có trách nhiệm chia bớt của cải cho xã hội bằng việc làm từ thiện. Khi còn là sinh viên Gates đã học được những công việc từ thiện của Andrew Carnegie và John D. Rockefeller, những trí tuệ phi thường của cuộc cách mạng công nghiệp Mỹ.


Bill Gates với người dân các nước thuộc Thế giới Thứ ba.
Năm 1994, vợ chồng Bill Gates đã thành lập Quỹ William H. Gates để hỗ trợ cho giáo dục, y tế và đầu tư cho các cộng đồng có thu nhập thấp. Năm 2000, vợ chồng Bill Gates phối hợp với những quỹ gia đình để thành lập Quỹ Bill và Melinda Gates. Họ đóng góp 28 triệu đô-la để thành lập quỹ.

Ngày 13/1/2000, Gates nhường vị trí giám đốc điều hành CEO cho Steve Ballmer. Gates vẫn làm Chủ tịch và kiêm vai trò kiến trúc sư trưởng của Microsoft. Vài năm sau, công việc từ thiện ở Quỹ Bill và Melinda Gates chiếm lĩnh nhiều thời gian và mối quan tâm của Gates hơn. Do đó năm 2006, Gates thông báo ông đang trong thời kỳ chuyển giao các công việc ở Microsoft để dành toàn bộ thời gian cho Quỹ từ thiện. Gates rời Microsoft ngày 27/6/2008.

Tài liệu tham khảo:
A&E Television Networks
Hard drive: Bill Gates and the making of the Microsoft empire by James Wallace, Jim Erickson.
Theo DVT.vn

Bill Gates, huyền thoại một thế kỷ (phần 3)

Năm 1983, Microsoft bắt đầu mở các văn phòng đại diện trên toàn cầu. Khoảng 30% số lượng máy tính trên thế giới chạy bằng phần mềm của Microsoft.

Thành công ban đầu của Microsoft
Bill Gates trở thành nhà quản lý thành công bằng sự nhạy bén cả trong cả kỹ thuật lẫn kinh doanh và là người phát ngôn chính của công ty. Anh xem xét từng dòng code mà công ty chuyển đến và thường xuyên viết lại code khi thấy cần thiết.
Khi ngành công nghệ máy tính phát triển và xuất hiện những công ty như Apple, Intel, và IBM sản xuất phần cứng cùng các thiết bị cấu thành, Gates liên tục đi giới thiệu về các sản phẩm đáng giá của những ứng dụng phần mềm Microsoft. Anh thường đưa mẹ mình đi cùng. Bà Mary đánh giá cao và kết nối thành công với các thành viên ở nhiều hội đồng công ty, trong đó có IBM. Thông qua bà, Bill Gates đã gặp CEO của IBM.

Bill Gates còn rất trẻ nhưng đã nhanh chóng tạo ấn tượng mạnh với IBM.
Tháng 10/1980, IBM đang tìm kiếm phần mềm có thể điều hành máy tính cá nhân (PC) sắp ra mắt của họ và công ty đã tiếp cận với Microsoft. Có một chuyện hết sức đáng nhớ là lần đầu tiên gặp Bill Gates, có người ở IBM tưởng anh là nhân viên phụ tá văn phòng nên đã yêu cầu anh phục vụ cà phê. Khi đó Gates trông còn rất trẻ nhưng anh đã nhanh chóng tạo ấn tượng mạnh với IBM và điều đó thuyết phục IBM rằng anh và công ty của anh có thể đáp ứng được nhu cầu của họ.
Vấn đề khó khăn duy nhất là Microsoft chưa phát triển được hệ điều hành cơ bản để chạy các máy tính của IBM. Tuy nhiên, Gates không hề dừng lại, anh đã mua một hệ điều hành được phát triển để chạy trên những chiếc máy tính tương tự như máy của IBM. Anh thương lượng với người phát triển phần mềm để Microsoft trở thành đại lý cấp phép độc quyền và sau đó là chủ sở hữu hoàn toàn đối với 86-DOS, một hệ điều hành tương tự như CP/M do Tim Peterson của hãng Seattle Computer Products (SCP) viết cho các phần cứng có tính năng tương tự như PC.

Bill Gates phải điều chỉnh phần mềm mới được mua để làm việc cho PC của IBM. Anh đưa ra giá 50 nghìn đô-la, bằng với giá mua phần mềm ban đầu. IBM muốn mua mã nguồn để có thể cung cấp thông tin cho hệ điều hành nhưng Gates từ chối, thay vào đó anh đề xuất IBM trả phí cấp phép cho các bản copy phần mềm được bán cùng với máy tính của họ. Thực hiện việc này cho phép Microsoft cấp phép phần mềm mà họ gọi là MS-DOS cho bất kỳ công ty sản xuất máy tính PC nào. Điều mà sớm muộn các công ty khác có thể làm là họ sẽ nhân bản máy tính của IBM. Microsoft cũng cho ra mắt phần mềm có tên gọi là Softcard, cho phép Microsoft BASIC điều hành các sản phẩm Apple II.
Các năm 1978 đến 1981, Microsoft phát triển đội ngũ nhân viên từ 25 người đã lên tới 128 người. Doanh thu cũng tăng từ 4 triệu đô-la lên tới 16 triệu đô-la. Tháng 6/1981, Gates và Allen cơ cấu lại công ty. Bill Gates được bổ nhiệm làm Chủ tịch HĐQT kiêm tổng giám đốc điều hành. Allen làm phó tổng giám đốc điều hành.

Năm 1983, Microsoft bắt đầu mở các văn phòng đại diện trên toàn cầu. Thị trường đầu tiên Gates nhắm tới là Anh và Nhật. Khoảng 30% số lượng máy tính trên thế giới chạy bằng phần mềm của Microsoft. Cũng trong năm này, có một tin làm chấn động Microsoft, Paul Allen được chẩn đoán bị bệnh U lympho Hodgkin. Sau một năm điều trị tích cực, mặc dù bệnh tình của anh đã có phần thuyên giảm nhưng Allen vẫn xin rút khỏi công ty. Lúc này xuất hiện vô số lời đồn đại về việc tại sao Allen rời khỏi Microsoft. Có một số người cho rằng Bill Gates đã đẩy anh ra khỏi công ty, nhưng nhiều người khác lại cho rằng Allen muốn thay đổi và tìm những cơ hội khác.
Phát minh ra hệ điều hành Windows của Microsoft
Mặc dù sự ganh đua giữa Microsoft và Apple rất lớn và liên tục nhưng thời kỳ đầu họ từng chia sẻ nhiều sáng tạo. Năm 1981, Apple mời Microsoft giúp hãng này phát triển phần mềm cho máy tính Macintosh của hãng. Một số nhà sản xuất được tham gia vào cả phát triển phần mềm của Microsoft và phát triển những ứng dụng cho dòng máy tính Macintosh. Việc hợp tác giữa hai công ty được thể hiện trong một số sản phẩm mang thương hiệu chung giữa Microsoft và hệ thống Macintosh. Nhờ quá trình phát triển những ứng dụng này, Microsoft tìm ra hướng phát triển hệ điều hành Windows. Đây là một hệ điều hành sử dụng chuột máy tính để điều khiển giao diện đồ họa, trình bày văn bản và hình ảnh trên màn hình.
Bill Gates nhanh chóng nhận ra rằng loại phần mềm này có thể đại diện cho MS-DOS và toàn thể Microsoft. Đối với người dùng đơn giản, thứ mà người mua nhiều nhất là hình ảnh đồ họa của phần mềm VisiCorp sẽ dễ sử dụng hơn nhiều.
Bill Gates đã thông báo trong một chiến dịch quảng cáo rằng hệ điều hành Microsoft mới chuẩn bị được phát triển và sẽ sử dụng giao diện đồ họa. Nó sẽ có tên gọi là "Windows," và tương thích với tất cả các sản phẩm phần mềm của máy tính cá nhân chạy trên hệ thống MS-DOS. Được coi như một chiến thuật tiếp thị thành công, thật kỳ diệu là gần 30% thị trường máy tính đang sử dụng hệ điều hành MS-DOS đã chờ sự ra đời của hệ điều hành Windows thay vì việc họ chuyển sang dùng một hệ điều hành khác.


Tháng 11/1985, gần hai năm kể từ khi thông báo với người dùng, Bill Gates và Microsoft tung ra sản phẩn Windows. Nhìn bề ngoài, hệ điều hành Windows rất giống với hệ điều hành Macintosh mà công ty Apple (có sự tham gia của đội lập trình Microsoft) đã đưa ra gần hai năm trước đó. Gates đã từng khuyên Apple nên xin bảo hộ bản quyền cho phần mềm Macintosh nhưng họ đã không để tâm tới mà chỉ chú trọng đến việc bán máy tính. Sự thành công vang dội của hệ điều hành Windows đã đẩy Apple vào tình trạng khó khăn. Apple quay sang kiện Microsoft còn Microsoft thì trả đũa bằng cách trì hoãn việc chuyển phần mềm tương thích của Microsoft cho những khách hàng dùng Macintosh. Cuối cùng Microsoft thắng kiện bởi công ty chứng tỏ được rằng mặc dù có những điểm giống nhau trong cách thức hoạt động của hai hệ điều hành nhưng tính năng của chúng lại hoàn toàn khác biệt.
Ngày 13/3/1986, cổ phiếu Microsoft được bán công khai trên thị trường chứng khoán New York lần đầu tiên, mở cửa với mức giá 25,75 đô-la một cổ phần. Dường như ngày hôm đó mọi người chỉ đổ xô vào mua cổ phiếu của Microsoft.
Bill Gates nắm giữ 45%, tương đương với 24,7 triệu cổ phiếu. Giá trị cổ phiếu của Gates ước tính 234 triệu đô-la trong tổng số 520 triệu đô-la của toàn bộ Microsoft. Một năm sau khi cổ phần hóa đại chúng, tháng 3/1987, cổ phiếu Microsoft lên tới 90,75 đô-la, Bill Gates trở thành tỷ phú ở tuổi 31. Chưa có ai trong lịch sử nước Mỹ, từ những nhà đại tư bản và tài chính của thế kỷ 19 cho đến các nhà công nghiệp hiện đại lại kiếm được số tiền khổng lồ như thế ở độ tuổi này.
Kể từ đó Gates liên tiếp đứng đầu hoặc thuộc top đầu trong danh sách 400 người giàu nhất thế giới do tạp chí Forbes bình chọn. Năm 1999, giá cổ phiếu lên cao nhất mọi thời đại, giá trị cổ phần của Gates lên đến đỉnh điểm là 101 tỷ đô-la. Tuy nhiên, Bill Gates không bao giờ cảm thấy hoàn toàn yên tâm về địa vị của công ty. Ông luôn luôn xem xét xem nơi nào có sự cạnh tranh, và nỗ lực phát triển mạnh mẽ cùng với tính cạnh tranh khốc liệt. Gates mong rằng mọi người trong công ty đều có cùng động cơ và cống hiến. Đã từng có lần bà nhân viên phụ tá của công ty, một hôm đi làm sớm đã thấy có người đang ngủ dưới gầm bàn. Trong khi định gọi bảo vệ thì bà nhận ra đó chính là Bill Gates.
Bằng trí tuệ sáng suốt của mình, Gates nhận biết một cách thấu đáo tất cả các mặt của ngành công nghệ phần mềm để phát triển sản phẩm và đưa ra chiến lược của công ty. Khi phân tích bất cứ bước chuyển nào của công ty, ông đều phát triển một hồ sơ về tất cả những trường hợp có thể và giải quyết chúng, đặt ra câu hỏi về bất cứ điều gì có thể xảy ra. Phong cách quản lý đối đầu của ông đã trở thành huyền thoại khi ông thử thách nhân viên và những ý kiến của họ để duy trì quy trình sáng tạo tiếp tục phát triển. Một nhân viên khi trình bày mà không có sự chuẩn bị trước sẽ được nghe Gates nói: “Đó là điều ngớ ngẩn nhất tôi từng nghe!”. Ông liên tục kiểm tra những người xung quanh mình để xem liệu họ có thật sự bị thuyết phục bởi những ý tưởng của họ không.
Bên ngoài công ty, Bill Gates có tiếng là một người cạnh tranh khốc liệt. Nhiều công ty công nghệ hàng đầu như IBM bắt đầu phát triển hệ điều hành riêng của họ với tên gọi OS/2 để thay thế MS-DOS. Thay vì bị áp lực, Gates đẩy mạnh phần mềm Windows lên hàng đầu, cải tiến quá trình hoạt động của nó và mở rộng tính năng sử dụng.


Sản phẩm của Microsoft.

Năm 1989, Microsoft đưa ra sản phẩm Microsoft Office bao gồm các ứng dụng hiệu quả văn phòng như Microsoft Word and Excel được đưa vào trong một hệ thống tương thích với các sản phẩm của Microsoft. Các ứng dụng này không dễ dàng tương thích với hệ điều hành SO/2. Phiên bản Windows mới của Microsoft bán được 100 ngàn bản chỉ trong vòng hai tuần còn OS/2 nhanh chóng bị lu mờ đi. Điều này khiến cho Microsoft có một hệ điều hành thực sự độc quyền cho máy tính cá nhân (PC).

Chẳng bao lâu sau Ủy ban Thương mại Liên bang (FTC) tuyên bố điều tra Microsoft về khả năng vi phạm chống độc quyền. Suốt những năm 1990, Microsoft phải đối mặt với một chuỗi thanh tra của Ủy ban Thương mại Liên bang và Sở Tư pháp. Một số đối thủ cạnh tranh cho rằng Microsoft làm ăn không công bằng. Từ đó những lời đồn thổi của báo chí gây ảnh hưởng lớn đến giá cổ phiếu của Microsoft. Nhiều cổ đông lo lắng rút ra, giá cổ phiếu giảm tới 7 đô-la trong vòng 2 ngày, ngay sau khi FTC tiết lộ thông tin điều tra.

Lúc này Microsoft phải tự bảo vệ mình, điều đó thúc giục Bill Gates trở lại với những “cuộc chiến” đang diễn ra giống như khi ông lên tiếng về nạn ăn cắp phần mềm và tuyên bố rằng những hạn chế đó là mối đe dọa cho sự đổi mới và tính sáng tạo. Cuối cùng thì Microsoft có thể giàn xếp với chính phủ liên bang, tránh được nguy cơ phá sản. Qua đó Gates tìm ra một số cách để làm chệch hướng áp lực bằng những quảng cáo hài hước và sự ra mắt công chúng tại các buổi thương mại máy tính bằng nhận vật Mr. Spock trong bộ phim Star Trek. Mặc dù phải đối mặt với những cuộc điều tra liên bang nhưng Bill Gates vẫn điều hành công ty và cho ra mắt những phiên bản phần mềm mới.


Tài liệu tham khảo:
A&E Television NetworksHard drive: Bill Gates and the making of the Microsoft empire by James Wallace, Jim Erickson.
Theo DVT.vn

Bill Gates, huyền thoại một thế kỷ (phần 2)

Năm 1975, Microsoft ra đời, gần một năm sau, thương hiệu được chính thức đăng ký tại Văn phòng bang New Mexico ngày 26/11/1976.

Khởi đầu sự nghiệp
Tại Đại Học Harvard, Bill Gates theo học ngành luật nhưng cậu lại dành nhiều thời gian tìm hiểu về máy tính hơn. Mỗi khi đến kỳ thi, Gates chỉ dành vài giờ học đối phó.
Thời gian học ở trường, Gates vẫn duy trì mối liên lạc thường xuyên với Paul Allen. Về phía Allen, theo học ở Đại học bang Washington được hai năm thì anh bỏ học và làm việc cho công ty Honeywell ở Boston thuộc bang Massachusetts.
Mùa hè năm 1974, Gates cũng tham gia làm việc cho Honeywell cùng với Allen. Trong thời gian làm việc ở đây, Allen đã giới thiệu với Gates ấn bản tạp chí Điện tử Phổ thông với một bài báo viết về máy MITS Altair 8800 trên nền vi xử lý Intel 8080. Nhận thấy triển vọng của dòng máy tính này, Gates và Allen quyết định mở một công ty riêng. Máy tính Altair do công ty Micro Instrumentation và Telemetry Systems (MITS) ở Albuquerque, New Mexico sản xuất. Gates và Allen đã liên hệ trực tiếp với công ty và tuyên bố với họ rằng các cậu có thể triển khai chương trình phần mềm BASIC điều hành máy tính Altair.
Thực tế, họ chưa hề sử dụng Altair và cũng chưa hề có mã nguồn để chạy dòng máy này. Nhưng họ muốn biết xem MITS có quan tâm đến việc sẽ có người phát triển phần mềm tương tự như thế không. MITS và chủ tịch của công ty này, ông Ed Roberts đã yêu cầu hai cậu chứng minh điều các cậu nói. Thế là Gates và Allen bắt tay vào công việc, họ dành hai tháng nỗ lực viết phần mềm tại phòng máy ở Đại Học Harvard. Sau đó Allen đến Albuquerque để thử tại MITS.
Thật tuyệt vời là chương trình chạy hoàn hảo và không hề mắc lỗi. Ngay lập tức Allen được mời về làm việc cho MITS và chẳng bao lâu sau Gates cũng bỏ Trường Harvard về làm việc cùng Allen. Việc rời bỏ một trường đại học danh tiếng nhất nước Mỹ khiến cho cha mẹ Gates ban đầu rất buồn.
Bill Gates thường làm việc qua đêm ở công ty và ngủ lại ngay trên sàn.
Năm 1975, Microsoft ra đời với tên ban đầu Micro-soft (Micro-soft là sự kết hợp của "micro-computer" và "software"), gần một năm sau dấu gạch ngang được xóa bỏ và tên thương hiệu được chính thức đăng ký tại Văn phòng bang New Mexico ngày 26/11/1976. Sau này nhiều người cho rằng Microsoft chính là Traf-O-Data được đổi tên, nhưng thực tế không phải vậy. Hai công ty này hoàn toàn hoạt động độc lập.
Thời gian đầu, mặc dù chương trình phần mềm BASIC cho máy tính Altair đã mang lại thù lao và tiền bản quyền cho công ty nhưng vẫn không đủ để đáp ứng được chi phí hoạt động. Phần mềm BASIC của Microsoft trở nên phổ biến đối với giới ham mê máy tính thật sự. Tuy nhiên, những người này đã lấy được những bản copy trước khi nó được tung ra thị trường. Ngay lập tức chúng bị sao chép và phát tán rộng rãi.
Khi Gates nhận ra phần mềm BASIC không bán chạy là do người sử dụng kiếm được bản sao trên thị trường, anh vô cùng bực bội, nản chí đến nỗi đề nghị bán đứt cho Robert - chủ tịch MITS với giá khoảng 6.500 đô-la. Nhưng Robert từ chối bởi anh hiểu và thông cảm với Gates. Anh rất khâm phục cả Gates lẫn Allen nên không hề có ý lợi dụng họ. Chỉ chút nữa thì Gates mắc phải một sai lầm lớn trong kinh doanh.
Theo bản báo cáo của Gates sau này, chỉ 10% số người sử dụng BASIC trong máy tính Altair thực sự trả tiền cho phần mềm. Lúc này, phần lớn trong số những người say mê máy tính cá nhân là những người sử dụng không mất tiền. Sự dễ dàng trong việc sao chép và phát tán khiến cho họ sẵn sàng chia sẻ với bạn bè và những người ham mê máy tính khác. Còn bản thân Bill Gates thì cho rằng việc sử dụng phần mềm không mất tiền giống như kẻ ăn cắp, đặc biệt những phần mềm được sản xuất để bán.
Tháng 2/1976, Gates viết một bức thư ngỏ cho những người say mê máy tính, trong thư có nói rằng việc tiếp tục phát tán và sử dụng phần mềm mà không trả tiền sẽ "ngăn cản sự sáng tạo những phần mềm tốt." Điều cơ bản là, việc ăn cắp phần mềm sẽ làm nản lòng những người sáng tạo, khiến họ không còn hứng thú đầu tư thời gian, tiền bạc cũng như công sức để sáng tạo phần mềm chất lượng cao. Anh cho rằng những kẻ ăn cắp phần mềm là những kẻ bất lương, và rằng những người bán lại phần mềm BASIC "làm ô danh giới hâm mộ và cần phải tống ra khỏi những buổi họp mặt câu lạc bộ máy tính".
Bức thư được đăng tải trên bản tin Altair và hầu hết các ấn phẩm lớn trong ngành. Lá thư có những tác động thực sự tích cực đối với nạn ăn cắp bản quyền cho dù còn có một vài dư luận trái chiều. Sau đó Gates tiên đoán rằng BASIC sẽ trở thành nền tảng cho sự phát triển các chương trình ứng dụng lý thú cho máy tính trong giai đoạn tiếp theo.

Những thành viên ban đầu của Microsoft.
Vào tháng 1/1977, mối quan hệ của Microsoft với MITS bắt đầu có những căng thẳng. Giữa Gates và chủ tịch Ed Roberts liên tiếp xảy ra xung đột. Có lần Gates bực tức đến nỗi đấm cả vào mặt Robert. Không lâu sau Roberts bán MITS cho công ty máy tính Pertc với giá trị hàng triệu đô-la để trở về Georgia theo học ngành y và trở thành bác sĩ gia đình. Gates và Allen khởi kiện ông chủ mới của MITS để giành lại bản quyền phần mềm mà họ đã phát triển cho Altair.
Microsoft tiếp tục viết phần mềm theo nhiều format khác nhau cho các công ty máy tính. Cuối năm 1978, Gates chuyển công ty đến Bellevue, Washington. Giai đoạn này công ty có 25 nhân viên, tất cả đều làm việc say mê và đầy trách nhiệm. Họ tham gia tất cả các khâu, từ hoạt động, phát triển sản xuất, phát triển kinh doanh đến tiếp thị. Bằng việc kết hợp hiếm hoi giữa tài năng kỹ thuật với sự nhạy bén về quản lý kinh doanh, Gates đã điều hành Microsoft với tổng doanh thu vượt bậc vào năm 1978 là 2,5 triệu đô la. Khi đó Gates mới 23 tuổi.

Tài liệu tham khảo: A&E Television Networks Hard drive: Bill Gates and the making of the Microsoft empire by James Wallace, Jim Erickson
Theo DVT

Thứ Năm, 5 tháng 1, 2012

Cựu lãnh đạo nói về chỉnh đốn Đảng

Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng đang gây chú ý, với nhiều nhận định cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đang cố gắng chữa bệnh từ bên trong nội bộ.

Hội nghị lần thứ tư của Ban chấp hành trung ương Đảng kết thúc vào ngày cuối cùng của năm 2011 đã ra nghị quyết về ba vấn đề cấp bách cần làm ngay.

Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu rằng đây là vấn đề mang tính ‘sống còn’ đối với Đảng.

Theo đó, vấn đề cấp bách trọng tâm là “đẩy lùi tình trạng suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống trong các cán bộ, đảng viên”.

Thật ra, “xây dựng chỉnh đốn Đảng” là chủ đề thường xuyên được nghe thấy ở Việt Nam, ít nhất là trong vòng 13 năm qua, tức là qua bốn nhiệm kỳ của Ban chấp hành trung ương, từ khóa 8 cho đến nay là khóa 11.

Tháng Hai năm 1999, Trung ương Đảng khóa 8 ra nghị quyết về “một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”, đưa vấn đề chỉnh đốn Đảng thành trọng tâm trong sinh hoạt chính trị của Đảng.

Ba tháng sau đó, Tổng bí thư lúc đó là ông Lê Khả Phiêu phát động “Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng” trong toàn Đảng.

Như vậy đã trải qua 13 năm, Đảng cộng sản Việt Nam dường như quay về điểm xuất phát khi một lần nữa lại phát động phong trào này.

Một số nhân vật có tiếng trong hàng ngũ Đảng đã công khai lên tiếng, tuy vẫn trong khuôn khổ báo chí nhà nước, cổ vũ cho việc chỉnh đốn Đảng.
Chất vấn và tín nhiệm

Nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu thể hiện tâm huyết chỉnh đốn Đảng của ông trong bài viết ‘Muốn Đảng mạnh phải loại bỏ chủ nghĩa cá nhân’ đăng trên báo Quân đội nhân dân.

"Chúng ta làm không đến nơi, đến chốn hoặc là không chịu làm, hoặc nói một đường, làm một nẻo."
Lê Khả Phiêu

Ông cho biết là được phép của Bộ chính trị, ông đã trao đổi trực tiếp “khá kỹ” với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng về nghị quyết ba vấn đề cấp bách trước khi Hội nghị trung ương 4 diễn ra.

Về lý do tại sao Bộ chính trị và Ban bí thư lại đặt vấn đề cấp bách với việc chỉnh đốn Đảng, ông Phiêu cho rằng đó là do “tình hình phát triển mạnh mẽ của thế giới và trong nước đòi hỏi Đảng ta phải đổi mới” và quan trọng hơn là “Đảng ta đang tồn tai không ít hạn chế, yếu kém”.

Nếu không chỉnh đốn được, thì Đảng sẽ “đánh mất lòng tin của nhân dân” và “không thể đảm đương được vai trò lãnh đạo đất nước”.

Ông thừa nhận đến nay Đảng vẫn “làm chưa triệt để”.

“Chúng ta làm không đến nơi, đến chốn hoặc là không chịu làm, hoặc nói một đường, làm một nẻo,” ông viết.

“Tôi nói ví dụ, ai cũng hiểu, nguyên tắc tổ chức của Đảng là không cho phép một người có quyền quyết định bất kỳ việc gì. Nhưng thực tế thì lại có chuyện này,” ông nêu vấn đề tuy không dẫn chứng sâu hơn.

“Nguyên nhân sâu xa nhất chính là chúng ta đã không đấu tranh triệt để với chủ nghĩa cá nhân,” ông viết.

Ông Phiêu đề nghị Ban chấp hành trung ương thực hiện chất vấn và lấy phiếu tín nhiệm hàng năm “từ Tổng bí thư đến các đồng chí ủy viên Bộ Chính trị”.
‘Phải chỉnh đốn cấp cao’

Còn ông Vũ Khoan, nguyên bí thư trung ương Đảng, nguyên Phó Thủ tướng, trong bài viết ‘Hãy thành thực đấu tranh với sai trái’ cũng nhìn nhận lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước đã giảm sút.

“Nhớ lại cuối những năm 80, đầu những năm 90 thế kỷ trước, hàng loạt Đảng cộng sản và công nhân ở Liên Xô - Đông Âu đã mất quyền lãnh đạo, một phần quan trọng cũng là do để mất lòng tin và sự ủng hộ của nhân dân,” ông cảnh báo.

Nhiều đảng viên than phiền chỉnh đốn không thực hiện ở cấp cao

Nguyên nhân, theo ông, là “nói không đi đôi với làm, trên bục thì rao giảng đủ điều, đòi hỏi ở đảng viên, quần chúng đủ thứ nhưng bản thân lại hành động ngược lại”.

Ông Nguyễn Đình Hương, nguyên ủy viên trung ương, đề xuất phải “làm rõ trách nhiệm người đứng đầu” trong bài viết cùng tên vì ông cho rằng Đảng suy thoái là do ở công tác dùng người.

“Cán bộ đứng đầu không gương mẫu thì cán bộ cấp dưới quyền dễ hư hỏng, người đứng đầu đã nhận của biếu xén thì giáo dục cho cán bộ dưới quyền sao được,” ông than phiền.

“Nếu cứ để một cơ chế mà chả ai chịu trách nhiệm, cơ quan, đơn vị xảy ra sai phạm nghiêm trọng, cán bộ quản lý cấp trên trực tiếp không ai bị xử lý trách nhiệm, thậm chí còn được đề bạt lên chức, lên lương, như vậy thì không bao giờ ngăn chặn được tình hình suy thoái trong bộ máy nhà nước,” ông Hương phân tích.
‘Độc đảng không suy thoái’

Ý kiến của ông Hương cũng được Trung tướng TS Nguyễn Ngọc Hồi, tổng biên tập tạp chí Quốc phòng toàn dân, chia sẻ trong bài viết “Gương mẫu của người đứng đầu là việc cần làm ngay”.

“Người đứng đầu không có tật thì mới giữ được kỷ cương, kỷ luật; cấp dưới không thể lộng hành, tự tung, tự tác,” ông viết. “Ngược lại, mọi lời giáo huấn của người đứng đầu sẽ trở nên vô ích, nếu bản thân anh không gương mẫu”.

Trong bài viết ‘Báo hiệu Đảng ta đã chuyển mình’, Thiếu tướng TS Lê Văn Cương, nguyên viện trưởng Viện chiến lược và khoa học của Bộ công an, bác bỏ quan điểm cho rằng nguyên nhân làm cho Đảng cộng sản suy thoái là không có đảng đối lập.

“Về nhận thức lý luận, phải khẳng định, một đảng duy nhất lãnh đạo không tất yếu dẫn đến quan liêu, tham nhũng, tha hóa,” ông viết.

TS Cương đưa dẫn chứng là ‘ở các giai đoạn lịch sử’ của nhiều quốc gia ‘chỉ do một đảng duy nhất lãnh đạo’ nhưng ‘vẫn phát triển nhanh, bền vững, ổn định’ như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và Malaysia.

Ý kiến của các đảng viên lão thành có vai vế trong Đảng gây những chú ý nhất định, nhưng không phải đều được tán thành.

Nói về một phỏng vấn của ông Lê Khả Phiêu với báo Tuổi Trẻ, blogger Trương Duy Nhất cho rằng “tự kiểm điểm, ‘tự soi mình’ của ông Phiêu thì rồi cũng luẩn quẩn như kiểu đánh trống phong trào, chứ không mong có sự thay chuyển nào”.

Theo BBC